Bệnh viện Hoàn Mỹ Đà Nẵng

Bệnh đậu mùa khỉ: Nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng ngừa

20/10/2023
Bệnh đậu mùa khỉ: Nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng ngừa

Cảnh giác với dịch bệnh đậu mùa khỉ

Đậu mùa là bệnh truyền nhiễm nhóm A. Việt Nam công bố đã xóa bỏ bệnh đậu mùa ở người năm 1978. Trường hợp mắc bệnh đậu mùa tự nhiên cuối cùng trên thế giới xảy ra ở Somali, Châu Phi vào tháng 10/1977. Sau đó 2 năm (1979), việc xóa bỏ bệnh đậu mùa trên toàn cầu đã được WHO xác nhận và Hội đồng Y tế Thế giới (WHA) phê chuẩn vào tháng 5/1980. Từ đó đến nay, không có trường hợp bệnh đậu mùa nào ở người được báo cáo và vắc xin phòng bệnh đậu mùa thông thường ở người đã không còn được sử dụng. Trên thế giới, chỉ có 2 nơi được cấp phép lưu trữ virus bệnh đậu mùa đảm bảo an toàn tuyệt đối là Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC), Atlanta, bang Georgia, Hoa Kỳ và Trung tâm nghiên cứu quốc gia về virus học và kỹ thuật sinh học Koltsovo, Novosibirsk, Liên bang Nga.”

Bệnh đậu mùa khỉ là gì?

Bệnh đậu mùa khỉ là một bệnh hiếm gặp do nhiễm virus đậu mùa khỉ (Monkeypox virus). Virus đậu mùa khỉ thuộc chi Orthopoxvirus trong họ Poxviridae. Chi Orthopoxvirus có khoảng 12 loại virus, bao gồm virus variola (gây bệnh đậu mùa ở người), virus gây bệnh đậu mùa ở bò, virus gây bệnh đậu mùa ở ngựa, virus gây bệnh đậu mùa ở khỉ, v.v.

Bệnh đậu mùa khỉ được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1958 khi hai đợt bùng phát bệnh tương tự như thủy đậu xảy ra trên các đàn khỉ được nuôi để nghiên cứu bệnh đậu mùa tại Copenhagen (Đan Mạch), do đó có tên là “bệnh đậu mùa khỉ”. Bệnh đậu mùa trên khỉ lần đầu tiên được xác định ở người vào năm 1970 tại Cộng hòa Dân chủ Congo ở một cậu bé 9 tuổi trong một khu vực đã loại trừ bệnh đậu mùa vào năm 1968.

Kể từ đó, bệnh đậu mùa ở khỉ đã được báo cáo xuất hiện trên người dân ở một số quốc gia Trung và Tây Phi khác: Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Bờ Biển Ngà, Cộng hòa Dân chủ Congo, Gabon, Liberia, Nigeria, Cộng hòa Congo và Sierra Leone. Phần lớn các ca bệnh xảy ra ở Cộng hòa Dân chủ Congo.

Các ca bệnh đậu mùa khỉ ở người đã xảy ra bên ngoài châu Phi liên quan đến đi du lịch quốc tế hoặc động vật nhập khẩu từ các quốc gia có dịch bệnh này.

Bệnh đậu mùa khỉ ít lây hơn bệnh đậu mùa người và ít gây bệnh nặng hơn. Vaccin chủng ngừa được sử dụng trong chương trình thanh toán bệnh đậu mùa ở người cũng giúp bảo vệ chống lại bệnh đậu mùa ở khỉ.

Các ổ chứa tự nhiên của bệnh đậu mùa khỉ vẫn chưa được biết đến. Tuy nhiên, các loài gặm nhấm châu Phi và các loài linh trưởng không phải người (như khỉ) có thể chứa virus và lây nhiễm sang người.

Dấu hiệu và triệu chứng bệnh đậu mùa khỉ

Sốt, nhức đầu, đau cơ và kiệt sức là những triệu chứng thường gặp của bệnh đậu mùa khỉ giai đoạn đầu

Sốt, nhức đầu, đau cơ và kiệt sức là những triệu chứng thường gặp của bệnh đậu mùa khỉ giai đoạn đầu

Ở người, các triệu chứng của bệnh đậu mùa khỉ tương tự như bệnh đậu mùa ở người nhưng nhẹ hơn. Bệnh đậu mùa khỉ bắt đầu với sốt, nhức đầu, đau cơ và kiệt sức. Khác với các triệu chứng của bệnh đậu mùa ở người, bệnh đậu mùa khỉ làm cho các Hạch bạch huyết sưng lên (nổi hạch) trong khi bệnh đậu mùa thì không. Thời kỳ ủ bệnh (thời gian từ khi nhiễm bệnh đến khi có triệu chứng) đối với bệnh đậu mùa khỉ thường là 7-14 ngày nhưng có thể từ 5-21 ngày.

Bệnh bắt đầu với:

  • Sốt
  • Đau đầu
  • Đau cơ
  • Đau lưng
  • Sưng hạch bạch huyết
  • Ớn lạnh
  • Kiệt sức

Trong vòng 1 đến 3 ngày (đôi khi lâu hơn) sau khi xuất hiện sốt, bệnh nhân phát ban, thường bắt đầu ở mặt sau đó lan ra các bộ phận khác của cơ thể.

Tổn thương tiến triển qua các giai đoạn sau trước khi tự khỏi: Dát (tổn thương da dạng phẳng) => Nốt sần => Mụn nước => Mụn mủ => Vảy.

Bệnh thường kéo dài trong 2-4 tuần. Ở Châu Phi, bệnh đậu mùa khỉ đã được chứng minh là có thể gây tử vong cho 1/10 số người mắc bệnh.

Các trường hợp bệnh nghiêm trọng xảy ra phổ biến hơn ở trẻ em và có liên quan đến mức độ phơi nhiễm virus, tình trạng sức khỏe của bệnh nhân và tính chất của các biến chứng. Sự phát sinh thiếu hụt miễn dịch có thể dẫn đến kết quả tồi tệ hơn, nhất là những người dưới 40 đến 50 tuổi (tùy thuộc vào quốc gia) có thể dễ bị bệnh đậu mùa hơn do các chiến dịch tiêm phòng bệnh đậu mùa trên toàn cầu đã chấm dứt sau khi loại trừ dịch bệnh. Các biến chứng của bệnh đậu mùa khỉ có thể bao gồm nhiễm trùng thứ phát, viêm phế quản phổi, nhiễm trùng huyết, viêm não và nhiễm trùng giác mạc kèm theo mất thị lực.

Quá trình lây truyền bệnh đậu mùa khỉ

Cảnh giác với dịch bệnh đậu mùa khỉ

Cảnh giác với dịch bệnh đậu mùa khỉ

Sự lây truyền virus đậu mùa ở khỉ xảy ra khi một người tiếp xúc với virus từ động vật, người hoặc vật liệu bị nhiễm virus (dịch tiết, chất thải, áo quần, chăn ga gối nệm, v.v.). Virus xâm nhập vào cơ thể qua da bị tổn thương, đường hô hấp hoặc niêm mạc (mắt, mũi hoặc miệng). 

Sự lây truyền từ động vật sang người có thể xảy ra do vết cắn hoặc vết xước, sơ chế thịt động vật, tiếp xúc trực tiếp với chất dịch cơ thể hoặc tiếp xúc gián tiếp với vật liệu bị nhiễm virus. 

Sự lây truyền từ người sang người được cho là chủ yếu xảy ra qua các giọt bắn lớn đường hô hấp. Các giọt bắn lớn đường hô hấp thường không thể di chuyển quá vài mét, vì vậy cần phải tiếp xúc trực tiếp lâu dài (nhân viên y tế, các thành viên trong gia đình bệnh nhân, người tiếp xúc gần là có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn). Các phương thức lây truyền từ người sang người khác bao gồm tiếp xúc trực tiếp với chất dịch cơ thể hoặc tiếp xúc gián tiếp với vật liệu bị nhiễm virus.

Sự lây truyền cũng có thể xảy ra qua nhau thai từ mẹ sang thai nhi (có thể dẫn đến bệnh đậu mùa khỉ bẩm sinh) hoặc khi tiếp xúc gần trong và sau khi sinh. Mặc dù tiếp xúc cơ thể gần gũi là một yếu tố nguy cơ lây truyền được biết đến nhiều, nhưng tại thời điểm này vẫn chưa rõ liệu bệnh đậu khỉ có thể lây truyền cụ thể qua đường tình dục hay không.

Vật chủ tự nhiên của virus đậu mùa khỉ (vật mang mầm bệnh chính)

Nhiều loài động vật khác nhau đã được xác định là bị bệnh đậu mùa khỉ: bao gồm sóc Congo, chuột túi khổng lồ Châu Phi, chuột sóc, động vật linh trưởng không phải người và các loài khác. Cần có các nghiên cứu sâu hơn để xác định (các) ổ chứa chính xác và cách thức tồn tại virus trong tự nhiên.

Nếu nghi ngờ mắc bệnh đậu mùa ở khỉ, nhân viên y tế nên thu thập mẫu bệnh phẩm thích hợp và vận chuyển an toàn đến phòng thí nghiệm. Việc xác nhận bệnh đậu mùa ở khỉ phụ thuộc vào loại và chất lượng của bệnh phẩm và loại xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase (PCR) là xét nghiệm thường được dùng trong phòng thí nghiệm để chẩn đoán.

Phòng ngừa bệnh đậu mùa khỉ

Có một số biện pháp có thể được thực hiện để ngăn ngừa nhiễm virus đậu mùa khỉ

  • Hạn chế buôn bán động vật hoang dã.
  • Tránh tiếp xúc với động vật có thể chứa virus (bao gồm động vật bị bệnh hoặc đã chết ở những khu vực xảy ra bệnh đậu mùa ở khỉ).
  • Nấu chín thịt và các sản phẩm động vật khác. 
  • Tránh tiếp xúc với bất kỳ vật liệu nào, chẳng hạn như khăn trải giường, v.v. đã tiếp xúc với động vật bị bệnh.
  • Cách ly bệnh nhân nhiễm bệnh với những người khác có thể có nguy cơ nhiễm bệnh.
  • Thực hành tốt vệ sinh tay sau khi tiếp xúc với động vật hoặc người bị nhiễm bệnh. Ví dụ, rửa tay bằng xà phòng và nước hoặc sử dụng chất khử trùng tay có cồn.
  • Sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân (PPE) khi chăm sóc bệnh nhân.

Năm 2019, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt khẩn cấp vắc xin JYNNEOSTM phòng bệnh đậu mùa ở người (còn được gọi là Imvamune hoặc Imvanex) để phòng chống bệnh đậu mùa ở khỉ (có hiệu quả ít nhất 85%). Việc tiêm phòng sau khi tiếp xúc với bệnh đậu mùa ở khỉ có thể giúp ngăn ngừa bệnh hoặc làm cho bệnh ít nghiêm trọng hơn. Điểm hạn chế là tính không có sẵn của vắc xin này.

Điều trị bệnh đậu mùa khỉ 

Tại thời điểm này, không có phương pháp điều trị cụ thể nào cho nhiễm trùng đậu mùa ở khỉ, nhưng các đợt bùng phát bệnh đậu mùa ở khỉ có thể được kiểm soát. Để kiểm soát đợt bùng phát bệnh đậu mùa khỉ, có thể sử dụng vắc xin đậu mùa, thuốc kháng virus và huyết thanh miễn dịch (VIG).

Thuốc kháng virus

  • Cidofovir và Brincidofovir (CMX001)

Không có dữ liệu về hiệu quả của Cidofovir và Brincidofovir trong điều trị các trường hợp mắc bệnh đậu mùa ở người. Tuy nhiên, cả hai đều đã được chứng minh hoạt động chống lại poxvirus trong các nghiên cứu trên động vật và trong ống nghiệm.

  • Tecovirimat (ST-246)

Không có dữ liệu về hiệu quả của thuốc này trong việc điều trị các trường hợp mắc bệnh đậu mùa ở người.

Các nghiên cứu sử dụng nhiều loài động vật khác nhau đã chỉ ra rằng Tecovirimat có hiệu quả trong điều trị bệnh do virus gây ra bởi orthopoxvirus. Các thử nghiệm lâm sàng trên người cho thấy loại thuốc này an toàn và có thể dung nạp được với chỉ những tác dụng phụ nhỏ. Hiệp hội Y tế Châu Âu (EMA) đã cấp phép sử dụng Tecovirimat cho bệnh đậu mùa khỉ vào năm 2022 dựa trên dữ liệu trong các nghiên cứu trên động vật và con người. Tuy nhiên thuốc này vẫn chưa được phổ biến rộng rãi.

  • Huyết thanh miễn dịch (VIG)

Không có dữ liệu về hiệu quả của VIG trong điều trị các biến chứng bệnh đậu mùa ở khỉ. Việc sử dụng VIG được thực hiện theo Chương trình thuốc mới (IND) và không có lợi ích nào được chứng minh trong điều trị các biến chứng đậu mùa. Người ta vẫn chưa biết liệu một người bị nhiễm bệnh đậu mùa khỉ nặng có được lợi khi điều trị bằng VIG hay không, tuy nhiên, việc sử dụng nó có thể được xem xét trong những trường hợp như vậy.

VIG có thể được xem xét để sử dụng dự phòng cho người bị phơi nhiễm bị suy giảm miễn dịch nghiêm trọng.

Tóm lại, việc điều trị bệnh lý này chủ yếu là chăm sóc toàn diện, nâng cao chế độ dinh dưỡng, điều trị giảm nhẹ triệu chứng, quản lý biến chứng và tránh di chứng lâu dài. Phòng ngừa và phát hiện sớm là công tác then chốt để kiểm soát bệnh đậu mùa khỉ.

ThS.BS Nguyễn Anh Tuyến
Trưởng Khoa Nội Tổng hợp – Bệnh viện Hoàn Mỹ Đà Nẵng (tổng hợp từ CDC Hoa Kỳ và WHO)