Theo Bộ Y tế, bệnh Marburg là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus Marburg gây ra. Ổ chứa tự nhiên là loài dơi ăn quả. Bệnh có thể lây truyền từ động vật như dơi, động vật linh trưởng sang người và lây từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết cơ thể (nước tiểu, mồ hôi, nước bọt, chất nôn, sữa mẹ, v.v.) hoặc với môi trường vật dụng bị ô nhiễm bởi dịch tiết của người mắc virus Marburg.
Hình ảnh mô tả về virus Marburg (MARV)
Đây là căn bệnh đặc biệt nguy hiểm có tỷ lệ tử vong cao (50 – 88%). Đáng lo ngại, hiện bệnh chưa có vắc-xin và thuốc điều trị đặc hiệu.
Triệu chứng bệnh do virus Marburg
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thời gian ủ bệnh Marburg là từ 2 ngày đến 3 tuần.
- Các triệu chứng bắt đầu đột ngột với Sốt dữ dội và đau đầu. Vài ngày sau khi khởi phát, nhiều người bệnh bị nôn mửa, tiêu chảy và đau bụng kéo dài tới một tuần.
- Trường hợp nặng có kèm theo chảy máu trong tuần đầu tiên, một số người bệnh nôn ra máu hoặc đi ngoài ra máu.
- Người bệnh cũng bị chảy máu nướu răng, ở mũi và cơ quan sinh dục. Bệnh có thể lan đến hệ thần kinh khiến người bệnh trở nên lú lẫn, dễ cáu gắt và hung dữ.
- Hầu hết các trường hợp tử vong sau hơn một tuần mắc bệnh, ngoài ra, WHO cho biết thêm, các trường hợp tử vong thường đi kèm với sốc và mất máu nghiêm trọng.
Các con đường lây truyền virus Marburg
Virus Marburg có đường lây truyền đa dạng. Bệnh có thể lây lan qua nhiều cơ chế khác nhau, cụ thể:
- Tiếp xúc lâu dài với phân hay chất tiết của dơi trong hầm mỏ. Một người bị nhiễm virus nếu tiếp xúc trực tiếp (vết thương hở) với máu, chất tiết, tạng hay tiếp xúc gián tiếp dịch cơ thể ngay cả trên bề mặt hay dụng cụ (quần áo, ga trải giường) bị lây nhiễm dịch tiết, hay tiếp xúc bề mặt với thực phẩm nhiễm virus.
- Lây truyền qua đường tình dục thông qua việc tiếp xúc với tinh dịch của người đã khỏi bệnh.
- Di truyền cho thai nhi qua nhau thai. Ở phụ nữ mang thai, virus Marburg có thể tồn tại trong nhau thai và nước ối. Đối với phụ nữ đang cho con bú, nếu bị nhiễm Marburg, virus có thể tồn tại trong sữa mẹ.
Phương pháp phòng ngừa nhiễm virus Marburg
Theo các chuyên gia y tế, cách phòng ngừa tốt nhất ở thời điểm hiện tại là ngăn chặn sự lây truyền trực tiếp từ người sang người cũng như hạn chế sự lây lan virus từ vật chủ hoặc động vật bị nhiễm sang người. Cụ thể:
- Cách ly, hạn chế tiếp xúc với người nghi nhiễm/ bị nhiễm virus.
- Trang bị các thiết bị bảo hộ như áo choàng, găng tay, khẩu trang, kính chắn, v.v trước khi tiếp xúc với người nghi nhiễm/bị nhiễm virus.
- Sử dụng thiết bị y tế 1 lần như kim tiêm. Khử trùng kỹ càng những thiết bị dùng lại sau khi có tiếp xúc với dịch cơ thể nhiễm virus Marburg.
- Thận trọng với các chất thải như máu/ bãi nôn, v.v hoặc bất cứ vật dụng nào của người bệnh.
- Tránh các vật chủ có nguy cơ tiềm ẩn chứa virus hư dơi ăn quả, động vật linh trưởng.
- Rửa tay thường xuyên sau khi chăm sóc người bệnh.
- Ngăn chặn ổ dịch bằng việc chôn cất nhanh chóng, an toàn người đã khuất; theo dõi những người có nguy cơ cao lây nhiễm trong 21 ngày.
- Nấu chín kỹ tất cả loại thịt trước khi tiêu thụ, tránh ăn thịt sống, tái.
- Phòng ngừa Marburg trong quan hệ tình dục: WHO khuyến cáo nam giới sau khi khỏi bệnh nên quan hệ tình dục sau hơn 12 tháng kể từ khi bắt đầu có triệu chứng bệnh hoặc cho đến khi có 2 lần xét nghiệm tinh dịch âm tính với virus Marburg.
- Tuyên truyền, giáo dục cộng đồng các thông tin cơ bản về nhận biết, phòng ngừa và cách xử lý khi bị nhiễm virus.
Do chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu nên việc phòng ngừa virus Marburg là điều rất cần thiết, đặc biệt trong vấn đề tiếp xúc và sử dụng các sản phẩm từ động vật. Khi có bất cứ dấu hiệu bất thường nào, hãy đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được kiểm tra, theo dõi kỹ lưỡng, phát hiện sớm và can thiệp kịp thời.
*Các thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo và tra cứu, vui lòng không tự áp dụng nếu chưa có chỉ định của bác sĩ.