Viêm ruột thừa ở trẻ em – Bệnh lý ngoại khoa phổ biến ở trẻ em và thiếu niên
08/08/2025Viêm ruột thừa là một trong những bệnh lý ngoại khoa cấp cứu thường gặp nhất ở trẻ em và thiếu niên. Nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời, bệnh có thể gây biến chứng nguy hiểm, thậm chí đe dọa tính mạng. Thống kê của Viện Nhi (Hà Nội) cho thấy, chỉ trong 3 năm (1991 – 1993) đã ghi nhận 243 trường hợp trẻ bị viêm ruột thừa.

Trên thế giới, viêm ruột thừa là bệnh lý khá phổ biến, điển hình tại Pháp, theo số liệu do Sournia công bố, chỉ riêng ngày 17/11/1972, toàn quốc đã có 1.260 ca phẫu thuật cắt ruột thừa. Còn ở Mỹ, mỗi năm có khoảng 80.000 trường hợp viêm ruột thừa, trong đó 10 – 30% là “mổ ruột thừa âm tính” (ruột thừa không viêm nhưng vẫn bị cắt bỏ). Đáng chú ý, khoảng 40% bệnh nhân khi mổ đã ở giai đoạn thủng ruột thừa, tiềm ẩn nguy cơ nhiễm trùng ổ bụng và biến chứng nặng.
Nguyên nhân chính gây viêm ruột thừa là tình trạng tắc nghẽn lòng ruột thừa. Sự tắc nghẽn này thường do chất phân khô lại, đôi khi bị vôi hóa, có thể phát hiện trên phim X-quang ở khoảng 20% trẻ mắc bệnh. Trong các ca viêm ruột thừa vỡ, có tới 65% tìm thấy “chất phân khô lại” so với chỉ 25% ở các ca chưa vỡ.
Triệu chứng và chẩn đoán
Triệu chứng cơ năng
Triệu chứng đầu tiên trong tam chứng cổ điển (đau, nôn và sốt) là đau quanh rốn. Tắc ruột thừa gây trướng căng đưa đến cảm giác đau qua những thụ thể của các sợi thần kinh tạng truyền đến hạch ngực X. Vì vậy, đau được cảm nhận ở vùng da quanh rốn. Vài giờ sau, đau chuyển về khu trú vùng hố chậu phải. Đau quanh rốn thường xảy ra với bất kỳ vị trí viêm ruột thừa nào: như viêm ruột thừa trong phúc mạc, viêm ruột thừa sau đại tràng hoặc sau manh tràng….
Các triệu chứng đến sau là nôn hoặc buồn nôn và sốt. Tam chứng viêm ruột thừa: đau, nôn và Sốt là cổ điển, nhưng nó không luôn luôn xuất hiện trong mọi trường hợp. Nhiễm virus hoặc vi khuẩn có thể có trước viêm ruột thừa, do đó nhiễm trùng có trước có thể che dấu viêm ruột thừa đang phát triển. Ở những bệnh nhi có viêm ruột do virus hoặc vi khuẩn, thứ tự triệu chứng thường đảo ngược lại: buồn nôn, nôn có trước cảm giác đau bụng. Hỏi kỹ bệnh sử giúp biết được những triệu chứng đã từng xuất hiện, dị ứng, bệnh tồn thân, tình trạng tăng trưởng và phát triển, điều kiện gia đình và xã hội.
Siêu âm
Siêu âm đã được sử dụng trong những năm gần đây để chẩn đoán viêm ruột thừa. Các biểu hiện trên siêu âm bao gồm:
- Đường kính ruột thừa tăng lên trên 6mm.
- Có một hoặc nhiều sỏi phân tăng cản âm trong lòng ruột thừa.
- Một lớp tăng âm bao quanh ruột thừa (hình ảnh mạc nối lớn).
- Tràn dịch quanh ruột thừa.
Cận lâm sàng khác
Công thức máu, Chụp cắt lớp vi tính có độ chính xác khá cao trong chẩn đoán
Điều trị
Viêm ruột thừa chưa vỡ
Viêm ruột thừa cấp chưa vỡ là một cấp cứu ngoại khoa. Khi đã có chẩn đoán xác định cần phải phẫu thuật sớm. Trong những năm gần đây, ở các nước tiên tiến đã triển khai cắt ruột thừa bằng nội soi. Riêng ở Việt Nam phẫu thuật nội soi mới bắt đầu phát triển.
Trong trường hợp nghi ngờ, nếu theo dõi 6 – 12 giờ mà vẫn chưa loại trừ được viêm ruột thừa, có tác giả khuyên cũng nên can thiệp phẫu thuật để tránh biến chứng.
Khi đã được chẩn đoán, các chuẩn bị tiền phẫu nên giới hạn với một số xét nghiệm cơ bản như hematocrit, công thức máu, BUN và phân tích nước tiểu. Nếu bệnh nhân nôn ói nhiều nên làm các xét nghiệm điện giải trong huyết thanh hoặc các xét nghiệm nước tiểu đặc hiệu. Phẫu thuật hiện tại là chỉ định, có thể phẫu thuật mở hay nội soi.
Viêm ruột thừa bị vỡ
Sau khi cắt ruột thừa, nên rửa ổ bụng bằng nước muối sinh lý hoặc Betadin pha lõang để làm giảm bớt tình trạng nhiễm trùng sau mổ. Không nên dùng dung dịch Betadin đặc sẽ dễ làm bỏng phúc mạc và thanh mạc của ruột.
Nếu mỏm ruột thừa quá mủn nát, tổ chức manh tràng nề, dễ bục, nên đặt một sonde qua mỏm ruột thừa để dẫn lưu manh tràng và cố định cẩn thận manh tràng vào thành bụng. Ống dẫn lưu nên rút sau 14 ngày.
Bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long được trang bị kỹ thuật hiện đại về gây mê cũng như là phẫu thuật viên. Hiện tại, tất cả bệnh nhi viêm ruột thừa đều được phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa. Hầu hết những trường hợp đều phục hồi tốt và không để lại biến chứng sau phẫu thuật.