Bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long

Hạ đường huyết: Tình trạng đường huyết hạ thấp

07/08/2025

Như thế nào là hạ đường huyết

Hạ đường huyết (hypoglycemia) là tình trạng nồng độ glucose trong máu giảm xuống dưới mức bình thường, ảnh hưởng đến chức năng của cơ thể, đặc biệt là não bộ – cơ quan phụ thuộc gần như hoàn toàn vào glucose để hoạt động.
Ở người bình thường, khi mức đường huyết tụt xuống dưới 70 mg/dL (tương đương 3,9 mmol/L), được xem là bắt đầu có nguy cơ hạ đường huyết. Tuy nhiên, các triệu chứng lâm sàng thường chỉ xuất hiện rõ rệt khi đường huyết xuống dưới 45–50 mg/dL.

Nguyên nhân

Hạ đường huyết khi đói

  • Do thuốc thường gặp nhất, chiếm 70%. Chủ yếu là do thuốc điều trị đái tháo đường: Insulin, Sulfonylureas,…
  • Uống rượu bia

Hạ đường huyết sau ăn (hạ đường huyết phản ứng):

Đây là phản ứng xảy ra sau khi ăn, thưởng xảy ra ở bệnh nhân có tiền sử cắt dạ dày. Nguyên nhân là do thức ăn đi qua dạ dày quá nhanh, đường được hấp thu sớm, gây mất tương hợp giữa lượng insulin và glucose.

Dấu hiệu và phân mức hạ đường huyết

Biểu hiện nhẹ

Thông thường, người hạ đường huyết mức độ nhẹ thường có chỉ số đường huyết giảm xuống <70 mg/dL (3,9 mmol/L) và ≥54 mg/dL (3,0 mmol/L) và đi kèm với các triệu chứng như:

  • Run, đổ mồ hôi
  • Tim đập nhanh, nhìn mờ, đói
  • Đột ngột khó chịu hay cáu gắt

Triệu chứng nặng

  • Mất khả năng phối hợp, vận động
  • Lú lẫn
  • Hôn mê, co giật
  • Mất ý thức

Mức độ hạ đường huyết

 Tiêu chí glucose huyết
Mức 1Glucose <70 mg/dL (3,9 mmol/L) và ≥54 mg/dL (3,0 mmol/L)
Mức 2Glucose <54 mg/dL (3,0 mmol/L)
Mức 3Hạ đường huyết mức độ nặng, bệnh nhân có rối loạn ý thức và/hoặc có thay đổi biểu hiện toàn thân cần xử trí cấp cứu

Chẩn đoán và điều trị

  • Thực hiện các biện pháp cấp cứu ban đầu theo các bước ABC
  • Các biện pháp điều trị cấp cứu đặc hiệu:

Truyền glucose tĩnh mạch

  • Nếu đã có đường truyền tĩnh mạch, tiêm 50 ml dung dịch glucose 50% (xấp xỉ 25g glucose, có thể giải quyết được hầu hết các giai đoạn hạ đường máu).
  • Theo dõi tình trạng ý thức bệnh nhân và kiểm tra lại đường máu mao mạch 15 – 30 phút sau tiêm.
  • Nhắc lại các liều dung dịch glucose 50% hoặc truyền tĩnh mạch dung dịch glucose 5 – 10% có thể cần thiết để duy trì nồng độ glucose máu phù hợp. Thiếu glucose não gây rối loạn ý thức, các biểu hiện giống co giật, các tổn thương thần kinh trung ương, phải mất một thời gian mới có thể hồi phục hoàn toàn.
  • Nếu các bất thường vẫn còn tồn tại trên 30 phút sau khi truyền glucose và trở lại bình thường (tức là không còn hạ đường máu) thì phải tìm kiếm các nguyên nhân khác bằng cách chụp CT sọ não và thực hiện các xét nghiệm phù hợp.

Ăn uống đường miệng

Ngay khi bệnh nhân tỉnh lại (hoặc bệnh nhân còn tỉnh), nước hoa quả (vd: nước táo, nước nho; 300 ml chứa khoảng 15g glucose) là sự lựa chọn tốt để duy trì nồng độ glucose máu, hoặc một bữa ăn nhẹ là phù hợp.

Glucagon

Nếu chưa có đường truyền tĩnh mạch, có thể tiêm bắp 1mg glucagon. Thời gian đáp ứng vào khoảng 10 – 15 phút, và buồn nôn và nôn do sự điều chỉnh quá mức nồng độ glucose máu (quá liều glucagon) khá phổ biến. Vì glucagon có thể tiêm bắp nên tất cả bệnh nhân đái tháo đường đang dùng insulin (hoặc gia đình họ) cần luôn mang theo glucagon và biết cách tiêm nếu cần.

Lưu ý theo dõi tình trạng sức khỏe

  • Chú ý thời gian tác dụng của insulin hoặc các thuốc uống hạ đường máu mà bệnh nhân đã sử dụng.
  • Kiểm tra đường máu mao mạch mỗi giờ cho tới khi nồng độ glucose máu ổn định.
  • Nói chung bệnh nhân cần được theo dõi qua thời gian tác dụng đỉnh của insulin, cụ thể như khoảng từ 30 phút tới 1-2 giờ đối với insulin lispro hoặc insulin aspart, 2 – 4 giờ đối với regular insulin, hoặc 6 – 8 giờ đối với NPH.
  • Insulin glargine không có hoạt động đỉnh và nói chung bản thân nó không gây hạ đường máu. Những bệnh nhân dùng insulin tác dụng chậm có thời gian tác dụng đỉnh như lente hoặc ultralente, hoặc bệnh nhân uống thuốc sulfonylurea thì cần phải được theo dõi trong bệnh viện.

Phòng ngừa và tầm soát

a) Với các bệnh nhân có nguy cơ hạ đường huyết: Cần hỏi bệnh kỹ các cơn hạ đường huyết có triệu chứng và hạ đường huyết không triệu chứng mỗi lần thăm khám

b) Với người bệnh dùng các nhóm thuốc có nguy cơ hạ đường huyết (insulin, SU) cần theo dõi, đánh giá, sàng lọc và hướng dẫn nhận biết nguy cơ và sự tái xuất hiện những cơn hạ đường huyết do người bệnh có thể không biết cơn hạ đường huyết

c) Điều trị cơn hạ đường huyết cho người bệnh tỉnh táo, tự uống được (Glucose huyết <3,9 mmol/L hay 70mg/dL) bằng 15-20g glucose pha nước uống, hoặc bất cứ loại thực phẩm nào chứa carbonhydrate có glucose dùng thay thế. Thử lại glucose huyết mao mạch sau 15 phút. Nếu vẫn còn thấp, điều trị nhắc lại liều như trên. Nếu glucose huyết về bình thường: cho người bệnh ăn nhẹ ngay để tránh nguy cơ tái xuất hiện hạ glucose huyết.

d) Người bệnh hạ glucose huyết mức độ 2 trở lên cần được tiêm glucagon (nếu có)

e) Người bệnh có nhiều cơn hạ đường huyết, hạ đường huyết không triệu chứng hoặc hạ đường huyết nặng cần được rà soát lại phác đồ điều trị, tìm nguyên nhân và có kế hoạch điều trị phù hợp.

f) Với những bệnh nhân đang điều trị bằng insulin mà xuất hiện hạ đường huyết không nhận biết, hạ đường huyết mức độ nặng thì cần điều chỉnh nới lỏng mục tiêu kiểm soát đường huyết trong vài tuần, nhằm giảm nguy cơ hạ đường huyết.

g) Cần đánh giá chức năng nhận thức cho những bệnh nhân có nhiều cơn hạ đường huyết hoặc cơn hạ đường huyết nặng để kịp thời điều chỉnh phác đồ điều trị.

Bài viết được thực hiện bởi BS. Mai Mỹ Duyên – ĐD. Trương Kim Vân, khoa Cấp cứu, Bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long.

Tài liệu tham khảo
Bộ Y Tế QĐ số 5481/2020 Hạ đường huyết.